Vài nét lịch sử giới trẻ theo lời kể của Đức Hồng Y Paul Josef Cordes

(Zenit 15 tháng 7)- Nhân dịp ngày Quốc tế Giới Trẻ đang diễn ra tại Sydney, Úc Châu, kính mời quý vị và các bạn theo dõi vài nét lịch sử của Ngày này, dựa theo lời kể của Đức Hồng Y Paul Josef Cordes, chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh Cor Unum- “Đồng Tâm”. ĐHY Cordes đã nhắc lại lịch sử Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, trong thánh lễ cử hành tại Trung Tâm Giới Trẻ ở Roma, nhân địp Trung Tâm này mừng kỷ niệm 25 năm thành lập.

Trung Tâm này được gọi là “Trung tâm Quốc tế Thánh Lorenzo” (San Lorenzo International Center), nằm cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô, Roma, đã được Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khánh thành ngày 13 tháng 3 năm 1983. Lúc đó, Đức Hồng Y Paul Josef Cordes giữ chức vụ Phó Chủ Tịch Hội Đồng Toà Thánh đặc trách giáo dân. Đức Hồng Y kể lại như sau:

“Ý tưởng thiết lập Ngày Quốc Tế Giới Trẻ được nghĩ đến trong Năm Thánh Đặc Biệt 1983-1984. Lúc đó, một thiện nguyện viên của Trung Tâm Quốc Tế Thánh Lorenzo, linh mục Massimo Camisasca, thuộc phong trào “Hiệp Thông và Giải Phóng”, đã đặt vấn đề như sau: “Trong Năm Thánh Đặc Biệt này, tại sao chúng ta không tổ chức cuộc Hội Ngộ Quốc Tế các bạn trẻ?”

Đức Hồng Y Cordes nhắc lại câu trả lời của ngài lúc đó như sau: “Đây là ý tưởng tốt, nhưng ai có thể lo việc tổ chức đây?” Ngài trả lời như vậy bởi vì,- theo lời kể của ĐHY Cordes,- ngài cho rằng Hội Đồng Toà Thánh đặc trách Giáo Dân không thể nào đủ sức để tổ chức cuộc Gặp Gỡ Quốc Tế này. Tuy nhiên Đức Hồng Y thầm nghĩ thêm rằng nếu tất cả những ai đang làm việc tại Hội Đồng Toà Thánh này đồng ý dấn thân tổ chức, thì cũng có thể thực hiện được. Thế là Đức Hồng Y quy tựu những kẻ thuận với ý tưởng tổ chức Cuộc Gặp Gỡ và được họ đồng ý cam kết dấn thân, mặc dù vài vị có ý kiến chống lại, do họ đã trải qua kinh nghiệm không tốt về một cuộc họp như thế trong Năm Thánh 1975.

Khi đến gần thời điểm dự định tổ chức Cuộc Gặp Gỡ Quốc Tế Giới Trẻ, tức gần đến Chúa Nhật Lễ Lá năm 1983, thì những chống đối từ bên ngoài lại gia tăng. Thậm chí vài giáo phận gởi về những phản ứng không thuận lợi cho rằng: Vatican không có thẩm quyền để chăm sóc mục vụ cho những người trẻ từ các giáo phận chúng tôi! Thêm vào đó, vào phút chót, ông Thị Trưởng Roma, một thành viên của Đảng Cộng sản Ý, rút lại giấy phép, không cho các bạn trẻ về cấm trại hay dựng lều ở tạm tại Công Viên của khu phố Pineta Sacchetti. Các nhà bảo vệ môi sinh kết hợp với các ký giả, lên tiếng phản đối cho rằng cuộc tập hợp đông người trẻ về Roma, sẽ phá hủy các hoa viên và những nơi công cộng của thành phố.

Nhưng, cho dù với những khó khăn chống lại, đúng ngày hẹn, tức Chúa Nhật Lễ Lá, đã có khoảng 300,000 bạn trẻ tựu về Quảng Trường Thánh Phêrô, để cử hành Lễ Lá với Đức Thánh Cha. Mọi sự đã diễn ra tốt đẹp trong trật tự và làm nhiều người ngạc nhiên. Dĩ nhiên là tại Hội Đồng Toà Thánh đặc trách giáo dân, chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để tổ chức cuộc gặp gỡ nói trên.

Không lâu sau đó, lúc sắp vào mùa hè, Đức Gioan Phaolô II chuyển đến Hội Đồng chúng tôi câu hỏi: “Liên Hiệp Quốc đã công bố năm tới (1984)- là Năm của Giới Trẻ. Vậy chúng ta có nên mời các bạn trẻ khắp nơi trên thế giới tựu về Roma lần nữa không?” Dù đã tỏ ra rất hăng say trong lần quy tựu giới trẻ vào Chúa Nhật Lễ Lá vừa qua, nhưng khi nghe “câu hỏi đề nghị” trên của Đức Thánh Cha, chúng tôi cảm thấy hụt hẫng, vì thời gian không còn bao nhiêu để chuẩn bị và tổ chức cuộc Gặp Gỡ Quốc Tế. Trong hai tháng hè sắp đến, chúng tôi không thể làm gì được. Hơn nữa, thời điểm để tổ chức cuộc Gặp Gỡ cũng là Chúa Nhật Lễ Lá năm 1984. Thật sự, thời gian còn quá ít! Nhưng chúng tôi muốn vâng lời Đức Thánh Cha. Vả lại chính chúng tôi đã nhìn thấy ảnh hưởng tốt đẹp của Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên vào Chúa Nhật Lễ Lá năm 1983. Thái độ vâng lời của chúng tôi gặp được hậu thuẫn bất ngờ: Chị Chiara Lubich, sáng lập viên phong trào Focolare- “Tổ Ấm” dấn thân giúp Hội Đồng chúng tôi hết mình; Chị đặt toàn bộ Phong Trào cộng tác giúp chúng tôi thực hiện chương trình. Kết quả thật khích lệ: 250,000 bạn trẻ khắp nơi đã tựu về Roma mừng lễ với Đức Thánh Cha vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1984, Đức Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tuyên bố như sau: “Chúa Nhật Lễ Lá vừa qua, Tôi đã gặp hàng trăm ngàn bạn trẻ; và tâm tư tôi còn khắc ghi sâu đậm những hình ảnh nói lên lòng hăng say của họ. Tôi hy vọng là kinh nghiệm tuyệt vời này có thể được lặp lại trong những năm sắp đến, khai sinh Ngày Quốc tế Giới Trẻ vào Chúa Nhật Lễ Lá hằng năm.” Thế là Đức Giaon Phaolô II đã thiết lập một cử hành mới trong sinh hoạt của Giáo Hội.

Từ đó được bắt đầu việc cử hành Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Giáo Hội Công Giáo tại nhiều quốc gia trên thế giới lần lượt được chỉ định đứng ra tổ chức, xen kẽ biến cố quốc tế với biến cố được cử hành tại giáo hội địa phương. Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần đầu tiên được tổ chức ngoài Roma, là tại Buenos Aires, bên nước Argentina, Châu Mỹ Latinh, sau đó đến phiên Tây Ban Nha, rồi đến Hoa Kỳ, đến các đại lục Âu Châu, Á Châu, Úc Châu. Ngày Quốc Tế Giới Trẻ của Đại Năm Thánh 2000 được tổ chức tại Roma. Ngày Quốc Tế Giới Trẻ có đông số tham dự viên nhất là Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Manila, Phi luật tân, vào năm 1995, với khoảng 5 triệu tín hữu tham dự

Diễn từ của Đức Thánh Cha Benedicto 16, gửi tới các bạn trẻ thế giới nhân ngày đại hội giới trẻ tại Úc Châu. Năm 2008

SYDNEY - Trong nghi thức của Bạn Trẻ chào mừng Đức Thánh Cha Benedictô XVI tại Barangaroo, Ngài đã ban bài diễn từ như sau:

Các Bạn Trẻ thân mến,


Thật là vui mừng biết bao khi được chào mừng các con tại Barangaroo này, ngay cạnh hải cảng thiên nhiên xinh đẹp của Sydney. Nhiều người trong các con là dân Úc địa phương, đến từ những vùng xa xôi hẻo lánh hay thuộc các cộng đồng sắc tộc đa văn từ các đô thị lớn. Nhiều người đã đến từ những hải đảo chi chít trong vùng Thái Bình Dương, và nhiều người khác từ Á Châu, Trung Đông, Phi Châu, và Mỹ Châu. Một số nữa, dĩ nhiên, cũng đã đến từ một nơi rất xa như Cha đây, là Âu Châu! Dù cho chúng ta có từ đâu đến đi chăng nữa, chúng ta cũng đang cùng nhau hiện diện nơi đây ở Sydney. Và chúng ta cùng sát cánh bên nhau trong thế giới này như một gia đình của Thiên Chúa, như những môn đệ Đức Kitô, được gia tăng sức mạnh nhờ Chúa Thánh Thần để làm chứng nhân cho tình yêu và chân lý của Thiên Chúa cho tất cả mọi người!

Trước tiên Cha xin cám ơn các vị Trưởng Lão Aboriginal đã chào đón Cha ở Rose Bay trước khi Cha lên tàu. Cha rất cảm động được đứng trên mảnh đất của anh chị em, và hiểu rằng trên mảnh đất này đã xảy ra nhiều đau khổ và bất công, nhưng Cha cũng biết là việc hòa giải và hàn gắn đang được tiến hành, để đem lại danh dự chính đáng cho tất cả mọi công dân Úc-đại-lợi. Với các bạn trẻ thổ dân – cả người Aboriginal lẫn Torres Strait, và người Tokelauans, Cha xin bày tỏ niềm tri ân về nghi lễ chào mừng cảm động của các canh chị em. Cha cũng nhờ anh chị em gởi lời chào mừng chân thành của Cha đến bộ tộc của anh chị em.

Thưa Đức Hồng Y Pell, Đức Hồng Y Rylko, Đức Tổng Giám Mục Wilson, Cha cám ơn các Chư Huynh về những lời chào mừng nồng ấm. Cha biết trong tim những bạn trẻ đang tụ họp nơi đây chiều nay cũng đang rung lên cùng những cảm nghĩ như vậy, và vì thế Cha xin cảm ơn tất cả mọi người. Trước mắt Cha là một hình ảnh sống động của Giáo Hội hoàn vũ. Những quốc gia và những nền văn hóa khác nhau mà các con đang trân trọng đã chứng tỏ rằng Tin Mừng của Đức Kitô thật sự được dành cho tất cả mọi người; rằng Tin Mừng đã được loan truyền đến khắp tận cùng trái đất. Nhưng Cha cũng biết rằng một số lớn các con vẫn đang tìm kiếm một quê hương tâm linh. Một vài người, rất được hoan nghênh đến với chúng ta, không phải là người Công Giáo hay Kitô Giáo. Nhiều người khác thì chỉ lảng vảng nơi ngưỡng cửa giáo xứ và các sinh hoạt của Giáo Hội. Với những người này Cha khuyến khích các con hãy mạnh dạn bước tới tiến vào vòng tay âu yếm của Đức Kitô, hãy xem Giáo Hội như là mái ấm của các con. Không một ai nên đứng ở ngoài rìa, bởi vì kể từ ngày Lễ Hiện Xuống Giáo Hội đã trở nên duy nhất và mang tính toàn cầu.

Cha cũng nhớ đến những người không có mặt nơi đây với chúng ta hôm nay. Cha đặc biệt nhớ đến những người đau yếu thể chất hay tinh thần, những người trẻ đang vướng vòng lao lý, những người khốn khổ sống bên lề xã hội, và những người mà bất kể vì lý do gì đang cảm thấy xa lạ với Giáo Hội. Cha muốn nói với những người này rằng: Đức Giêsu rất gần gũi với các con! Hãy cảm nhận vòng tay yêu thương hàn gắn và khoan dung của Ngài!

Khoảng 2000 năm về trước, các Tông Đồ, tụ họp tại Phòng Tiệc Ly với Đức Maria và những người phụ nữ đạo đức, đã được lãnh nhận tràn đầy Chúa Thánh Thần (Cv 1:14). Ngay vào thời điểm phi thường này đã khai sinh ra Giáo Hội đó, nỗi bất an và sợ hãi đang đè nặng tâm trí các tông đồ đã được biến đổi thành một niềm tin mạnh mẽ và một sứ mạng rõ ràng. Họ cảm thấy được thôi thúc phải loan truyền cuộc gặp gỡ của họ với Đức Kitô Phục Sinh, người mà họ âu yếu gọi bằng Chúa. Xét về nhiều khía cạnh, các Tông Đồ tiên khởi chỉ là những người rất bình thường. Không một ai trong số họ có thể xưng mình là một môn đệ hoàn hảo. Họ đã chẳng nhận ra Đức Kitô Phục Sinh (Lc 24:13-32), họ đã bị xấu hổ về những tham vọng của chính họ (Lc 22:24-27), và ngay cả đã từng chối bỏ Chúa nữa (Lc 22:54-62). Vậy mà khi được nâng đỡ bởi Thánh Linh, họ được xác quyết bởi chân lý của Phúc Âm và được linh hứng để mạnh mẽ công bố Tin Mừng mà không hãi sợ gì cả. Với lòng bạo dạn, họ tuyên bố: hãy ăn năn thống hối, hãy chịu Phép Rửa, hãy lãnh nhận Thánh Thần (Cv 2:37-38)! Được hướng dẫn bởi những lời rao giảng của các Tông Đồ, bởi sự đồng hành của họ, trong lời kinh nguyện và trong Bí Tích Thánh Thể, cộng đồng Kitô hữu non trẻ thời đó đã tiến lên và đi ngược lại với những việc xấu xa bất công lúc bấy giờ (Cv 2:40), để quan tâm lo lắng cho nhau (Cv 2:44-47), để bảo vệ niềm tin của họ vào Đức Giêsu trước những sự công kích (Cv 4:33), và để chữa lành những người bệnh tật đau ốm (Cv 5:12-16). Và khi tuân theo những điều luật của Đức Kitô, họ đã ra đi và làm chứng cho một điều lớn lao nhất trong mọi thời đại: Thiên Chúa đã trở nên một người trong chúng ta, đấng thánh thiêng đã nhập thế vào thế giới trần tục của loài người nhằm mục đích biến cải thế giới đó, và chúng ta được mời gọi để hoà mình trong tình thương cứu độ của Đức Kitô, tình thương chiến thắng sự dữ và tử thần. Thánh Phaolô, trong một bài giảng nổi tiếng của ngài cho người Areopagus, đã giới thiệu thông điệp đó như sau: “Thiên Chúa ban cho mọi loài mọi sự - từ sự sống đến hơi thở - để tất cả mọi dân tộc đều tìm kiếm Người, dò dẫm mà tìm kiếm Người, và may ra tìm được Người, tuy rằng Người thực sự không ở xa mỗi người chúng ta, bởi vì chính nhờ Người mà chúng ta sống, hoạt động, và hiện hữu” (Cv 17:25-28).

Và kể từ ngày đó, nhiều người nam cũng như nữ đã ra đi loan truyền thông điệp đó, làm chứng cho chân lý và tình yêu của Đức Kitô, và góp phần vào sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh. Hôm nay chúng ta nhớ đến các Linh Mục và Tu Sĩ Nam Nữ đã đi tiên phong từ Ái-nhĩ-lan, Pháp, Anh và những vùng khác ở Âu Châu đến những bến bờ nơi đây và những nơi khác trong vùng Thái Bình Dương. Phần lớn trong số họ là những người trẻ - một vài người chưa đến lứa tuổi 20 – và khi họ nói lời chia tay cùng cha mẹ, anh chị em và bạn bè, họ biết là rất có thể họ sẽ không bao giờ trở về. Cuộc đời họ là cả một chứng tá hết lòng cho Đức Kitô. Họ trở nên những người thợ xây bé mọn nhưng ngoan cường và đã gầy dựng một xã hội và một di sản văn hóa mà cho đến ngày nay vẫn còn nảy sinh những hoa quả tốt đẹp, tình thương yêu và chủ đích cho những quốc gia đó. Và họ cũng để lại những tấm gương sáng ngời cho các thế hệ kế tục. Chúng ta có thể nghĩ ngay đến niềm tin đã nâng đỡ Chân Phước Mary MacKillop trong quyết tâm dạy dỗ chăm sóc cách đặc biệt cho người nghèo của ngài, đến Chân Phước Peter To Rot trong sự kiên định của ngài là vai trò lãnh đạo bắt buộc phải đi đôi với Phúc Âm. Hãy nhớ đến chính ông bà cha mẹ các con nữa, đó là những người thầy đầu tiên đã dạy dỗ đức tin cho các con. Họ cũng đã phải hy sinh rất nhiều thời gian và công sức vì tình thương yêu dành cho các con. Qua sự trợ giúp của các linh mục giáo xứ và các giảng viên giáo lý, họ có một nhiệm vụ, tuy rất cao cả nhưng không phải lúc nào cũng dễ thực hiện, là chỉ dẫn cho các con hướng về những điều thiện hảo và đúng đắn, bằng chính gương chứng nhân – bằng lời giáo huấn và thực hành đức tin của họ.

Hôm nay là đến lượt Cha. Đối với một số người trong chúng ta, có thể nói là chúng ta đã đặt chân đến tận cùng trái đất! Tuy nhiên, với những người còn trẻ tuổi như các con thì bất cứ chuyến bay nào cũng là một điều thật thú vị. Nhưng với Cha, thì chuyến bay này có vẻ hơi nặng nề! Thế nhưng phong cảnh mặt đất nhìn từ trên không trung thì thật là kỳ diệu làm sao. Vùng Địa Trung Hải lấp lánh, sa mạc Bắc Phi mênh mông, những khu rừng Á Châu xanh tươi, Thái Bình Dương bao la, chân trời xa xa với những cảnh bình minh và hoàng hôn, và khung cảnh thiên nhiên xinh đẹp của Úc Châu mà Cha đã được tận hưởng trong mấy ngày vừa qua; tất cả những cảnh vật đó đều gợi lên lòng kinh ngạc và ngưỡng mộ. Ngắm những cảnh đó cũng giống như được nhìn thấy những nét trong tiến trình tạo dựng muôn loài theo sách Sáng Thế - ánh sáng và bóng tối, mặt trời và mặt trăng, đại dương và lục địa, các sinh vật; tất cả những gì được coi là “tốt đẹp” trong mắt Thiên Chúa (St 1:1-24). Được hoà mình trong những cảnh đẹp tuyệt vời đó, ai mà không thể đồng cảm với những lời lẽ ngợi ca Đấng Sáng Tạo trong Thánh Vịnh: “lẫy lừng thay Danh Chúa trên khắp cả địa cầu!” (Tv 8:1)

Và còn nữa – còn những điều khó mà hiểu được từ trên không trung: những con người nam nữ trên mặt đất, được tạo dựng từ chính hình ảnh Thiên Chúa (St 1:26). Trung điểm của tiến trình sáng thế này chính là các con và Cha, là gia đình nhân loại “được đội mũ triều thiên” (Tv 8:5). Thật kỳ diệu biết bao! Cùng với tác giả thánh vịnh, chúng ta phải thầm thì tự hỏi: “con người là chi mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8:4). Và rồi lắng xuống trong thinh lặng, lòng tràn đầy tâm tình tạ ơn, hòa quyện vào quyền linh thánh thiện, chúng ta phải băn khoăn suy nghĩ.

Và chúng ta khám phá được điều gì?

Có thể chúng ta phải miễn cưỡng mà nhìn nhận rằng cũng có những vết thẹo đầy dẫy khắp bề mặt trái đất, chẳng hạn như sự thoái hóa đất đai, sự phá hủy rừng rậm, sự lạm dụng khai thác các tài nguyên khoáng sản và thủy sản nhằm thỏa mãn cho một chủ nghĩa tiêu thụ tham lam vô độ. Một số các con đã đến từ các đảo quốc mà sự tồn tại bị đe dọa bởi mực nước biển ngày càng dâng cao; một số khác từ các quốc gia đang gánh chịu hậu quả của những trận hạn hán nặng nề. Công trình sáng tạo kỳ diệu của Thiên Chúa đôi khi lại trở thành thù nghịch với những người được đặt làm quản lý, và có khi còn trở thành nguy hiểm nữa. Tại sao một điều “tốt đẹp” lại có thể trở nên đáng sợ như vậy?

Và còn nữa. Còn nhân loại – kỳ công sáng tạo tuyệt đỉnh của Thiên Chúa – thì sao? Mỗi ngày chúng ta đều được tiếp cận với những thành quả thông thái của nhân loại. Từ những tiến bộ về mặt y học và những áp dụng khôn ngoan của kỹ thuật hiện đại, đến những công trình sáng tạo nghệ thuật, và đời sống con người vẫn luôn ngày càng được nâng cao về nhiều mặt. Các con có thật nhiều cơ hội và luôn sẵn sàng nắm bắt những cơ hội đó. Một số các con rất xuất sắc về các mặt học vấn, thể thao, âm nhạc, ca múa, kịch nghệ, một số khác thì quan tâm về các vấn đề đạo đức và công bằng xã hội, và nhiều người đã xung phong trong các việc phục vụ thiện nguyện. Tất cả chúng ta, già hay trẻ, đều có những khoảnh khắc mà tính bổn thiện – nếu nhìn theo nghĩa cử sẵn sàng tha thứ của một người lớn hay một em bé - đổ đầy tâm hồn chúng ta với những niềm vui và tri ân sâu sắc.

Thế nhưng những khoảnh khắc đó không kéo dài lâu. Và chúng ta lại phải băn khoăn suy nghĩ. Và rồi chúng ta khám phá ra rằng không những chỉ môi trường thiên nhiên mà còn môi trường xã hội nữa – môi trường mà chính chúng ta tự tạo dựng – đều có những vết thẹo; những vết thương chứng tỏ rằng vẫn còn thiếu thiếu điều gì đó. Ngay cả chính trong cuộc sống cá nhân chúng ta và trong cộng đồng, chúng ta cũng có thể thấy những sự thù nghịch, những điều nguy hiểm; những nọc độc đe dọa làm phá hủy những gì tốt đẹp, làm biến dạng bản thân chúng ta, và làm sai lạc những mục đích mà chúng ta được tạo dựng để đạt tới. Có nhiều ví dụ lắm, như các con cũng biết rồi. Những ví dụ thường thấy nhất là nạn rượu chè ma túy, nạn khuyến khích bạo lực và hạ cấp tính dục mà vẫn thường được trình bày trên tivi và internet như là việc giải trí. Cha tự hỏi là, có ai có can đảm đối diện với chính những người bị bạo hành và bị lạm dụng tình dục, mà dám “giải thích” rằng những thảm kịch đó, được diễn tả qua hình thức phim ảnh, lại có thể được liệt vào loại đơn thuần là “giải trí”?

Còn có một điều xấu khác phát xuất từ thực tế là tự do và lòng khoan dung thì rất thường hay bị tách rời khỏi sự thật. Điều này đã nảy sinh từ cái khái niệm, mà ngày nay được nhiều người tán đồng, là trên đời này chẳng có một chân lý tuyệt đối nào cả. Chủ nghĩa tương đối, bằng cách đề cao giá trị của hầu hết mọi việc một cách vô tội vạ, đã khiến người ta thích đi tìm những “kinh nghiệm” đó. Đúng, kinh nghiệm, nếu bị tách rời khỏi chân lý và điều thiện, có thể đưa tới, không phải sự tự do thật sự, mà là tới sự rối rắm về luân lý và lý trí, tới sự hạ thấp các chuẩn mực, tới việc đánh mất lòng tự trọng, và ngay cả tới sự tuyệt vọng.

Các con thân mến, cuộc đời không chỉ toàn là những sự tình cờ ngẫu nhiên. Sự hiện hữu của chính các con là do Thánh Ý Thiên Chúa, là được chúc phúc và được trao ban một mục đích cụ thể (St 1:28)! Cuộc đời không chỉ là một chuỗi những ngày lễ lạc hội hè và những kinh nghiệm, cho dù nhiều kinh nghiệm đó rất là bổ ích. Cuộc đời là một chuyến hành trình tìm kiếm Chân, Thiện, Mỹ. Chúng ta nên dựa vào những tiêu chuẩn này khi chọn lựa phương hướng cuộc đời, chúng ta dùng những tiêu chuẩn này để thể hiện tự do của chúng ta; và chỉ có trong những tiêu chuẩn này – Chân, Thiện, Mỹ - là chúng ta có thể tìm được hạnh phúc và nguồn vui đích thực. Đừng dại dột mà nghe lời những kẻ chỉ xem các con như là một người tiêu thụ như bao người khách hàng khác trong một thị trường đầy dẫy những sản phẩm bừa bãi, nơi mà quyền chọn lựa đã trở thành một món hàng, sự mới lạ đã truất ngôi mỹ thuật, và những kinh nghiệm chủ quan đã hất cẳng sự thật.

Đức Kitô có thể mang đến cho các con những điều tốt đẹp hơn! Thật vậy, Ngài có thể ban cho các con tất cả! Chỉ có Ngài là Sự Thật, là Con Đường, và vì thế cũng là Sự Sống. Cho nên “con đường” mà các Tông Đồ dẫn tới tận cùng trái đất chính là cuộc sống trong Đức Kitô. Đó là cuộc sống trong Giáo Hội. Và ngõ vào của cuộc sống này, của con đường Kitô Giáo là Phép Rửa Tội.

Vì thế đêm nay Cha cũng muốn nhắc lại sơ qua một chút khái niệm về Phép Rửa Tội trước khi tìm hiểu về Chúa Thánh Thần vào ngày mai. Trong ngày các con lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, Thiên Chúa cho các con thông phần vào bản tính thánh thiện của Ngài (2 Pt 1:4). Các con đã được nhận là con cái của Cha Trên Trời. Các con được kết hợp với Đức Kitô. Các con được làm Đền Thờ của Chúa Thánh Thần (1 Cr 6:19). Bí Tích Rửa Tội không phải là một thành tích, cũng không phải là một phần thưởng. Đó là một hồng ân, đó là công trình của Thiên Chúa. Thật vậy, vào phần kết thúc trong nghi thức Rửa Tội, linh mục sẽ quay sang cha mẹ các con và những người hiện diện tại đó, rồi đọc tên con và tuyên bố rằng: “con đã trở nên tạo vật mới” (Nghi Thức Rửa Tội, 99).

Các con thân mến, khi đang ở nhà, ở trường, nơi làm việc, nơi giải trí, hãy luôn nhớ rằng các con là những con người mới! Không những các con ngước trông lên Đấng Sáng Tạo với lòng kính phục ngưỡng mộ, tự hào về những kỳ công của Người, mà các con còn sẽ nhận ra rằng nền tảng vững chắc của một xã hội đoàn kết loài người là ở chỗ nguồn gốc chung của con người, mà mỗi người là một tuyệt tác của Thiên Chúa. Trong vai trò Kitô hữu các con sống giữa thế gian với ý thức rằng Thiên Chúa có một bộ mặt của loài người – tức là Đức Giêsu Kitô – là “con đường” thỏa đáp những khát vọng của nhân loại, là “sự sống” mà chúng ta được kêu mời để làm chứng dưới ánh sáng của Ngài (ibid. 100). Sứ mạng của một chứng nhân không phải là dễ dàng. Nhiều người ngày nay cho rằng Thiên Chúa chỉ nên được đặt ở bên lề; và tôn giáo và đức tin, mặc dù tốt cho các cá nhân, nhưng phải nên loại ra khỏi những diễn đàn công cộng hoặc chỉ nên dùng trong những mục đích thiết thực hạn chế nào đó mà thôi. Quan niệm trần tục này muốn giải thích cuộc sống của con người và muốn định hướng xã hội mà không nhắc gì đến Đấng Sáng Tạo. Chủ nghĩa thế tục được trình bày có vẻ như là một chủ nghĩa trung lập, không thiên vị, và đại diện cho tất cả mọi người. Nhưng thực tế là, cũng như các chủ nghĩa khác, chủ nghĩa thế tục đã áp dụng quan điểm của trần thế. Nếu Thiên Chúa không liên quan gì với cuộc đời của quần chúng, thì xã hội sẽ được uốn nắn theo một hình ảnh vô thần, và những cuộc thảo luận cũng như các chính sách an sinh xã hội sẽ được hình thành để đối phó với các hậu quả hơn là được thiết lập trên những nguyên tắc căn bản dựa theo chân lý.

Kinh nghiệm cho thấy việc quay lưng lại với chương trình của Thiên Chúa đã gây ra những xáo trộn mà từ đó không khỏi không ảnh hưởng tai hại đến những phần còn lại của thế giới thụ tạo (Thông Điệp của ngày Quốc Tế Hòa Bình 1990, 5). Khi Thiên Chúa bị che phủ, chúng ta bị suy yếu khả năng nhận biết các trật tự tự nhiên, thánh ý Thiên Chúa và những điều tốt đẹp. Những gì ra vẻ được đề cao như là sự khôn ngoan của loài người sớm muộn gì cũng sẽ lộ nguyên hình là những điều dại dột, tham lam và sự lợi dụng ích kỷ. Và vì thế chúng ta đã càng ngày càng ý thức được rằng chúng ta cần phải có lòng khiêm nhường trước thế giới tinh vi phức tạp của Thiên Chúa.

Thế còn môi trường xã hội của chúng ta thì sao? Chúng ta có nên cảnh tỉnh với những dấu hiệu của sự quay lưng lại với hệ thống luân lý mà Thiên Chúa đã phú ban cho nhân loại (Thông Điệp của ngày Quốc Tế Hòa Bình 2007, 8)? Chúng ta có biết rằng phẩm cách bẩm sinh của mỗi một cá nhân là tùy thuộc vào căn tính của họ - là hình ảnh của Đấng Tạo Hóa – và vì thế nhân quyền là có tính cách toàn cầu, dựa trên quy luật tự nhiên, chứ không phải dựa trên những sự dàn xếp, bảo trợ, chưa kể những sự thỏa hiệp. Và vì vậy chúng ta hãy suy nghĩ về vai trò của những người nghèo khó, già yếu, những người di dân và những người thấp cổ bé miệng trong xã hội của chúng ta. Tại sao lại có nhiều cảnh bạo hành trong gia đình làm đau khổ những người mẹ và những đứa con thơ đến như vậy? Tại sao phần thân thể linh thiêng và kỳ diệu nhất của con người – cung lòng người mẹ - lại trở nên một chốn ác nghiệt không lời nào tả cho xiết?


Các con thân mến, công trình sáng tạo của Thiên Chúa rất độc đáo và rất tốt đẹp. Những mối quan tâm về các dự án phát triển không phá hủy thiên nhiên và giữ được lâu bền, về công lý và hòa bình, và về việc bảo tồn môi trường là những vấn đề quan trọng sinh tử của nhân loại. Tuy nhiên, những vấn đề này không thể được hiểu thấu mà lại tách rời khỏi sự suy nghĩ sâu sắc về nhân cách bẩm sinh của cuộc đời mỗi một con người từ lúc thụ thai cho đến lúc lìa đời: một nhân cách do chính Thiên Chúa trao ban và vì thế bất khả xâm phạm. Thế giới của chúng ta đã trở nên mệt mỏi với những sự tham lam, lợi dụng, chia rẽ, sự rập khuôn của những thần tượng thế gian, những đáp ứng không trọn vẹn, và nỗi đau vì những lời hứa rỗng tuếch. Tâm hồn chúng ta khao khát một viễn cảnh của cuộc sống trong đó tình yêu tồn tại muôn thưở, những ơn lành được chia sẻ, tình đoàn kết được bồi đắp, ý nghĩa của quyền tự do được thể hiện nơi sự thật, và căn tính được thể hiện nơi các mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau. Đó là thành quả của Chúa Thánh Thần! Đó là niềm hy vọng được diễn tả trong Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô. Chính vì mục đích làm chứng nhân cho thực tại này mà các con đã được tái sinh trong Phép Rửa và được củng cố nhờ Bảy Ơn Chúa Thánh Thần trong Phép Thêm Sức. Xin cho đây là một thông điệp mà các con sẽ đem từ Sydney đến khắp thế giới!

Học và học...Già cũng học


Đúng là sự học nó không bị hạn chế trong phạm vi tuổi nào mà nó luôn phát triển nếu người nào biết tìm và học hỏi

Bác Lâm Lay là một điển hình…Hiện tại bác đang sinh sống tại tiểu bang Utah (Hoa Kỳ) và đã được cấp bằng tốt nghiệp vào lúc 7 giờ tối ngày 19 tháng 6 năm 2008.

Theo như người viết được biết, bác Lâm Lay qua Mỹ theo diện H.O cùng với người vợ là bà Mã thị Tròn … Sau vài năm, hai ông bà lại đón người con trai và gia đình đến Mỹ trong chương trình Mc Cain.

Gia đình bác ta đang tạm ổn trong cuộc sống mới, thì bất ngờ đứa con trai bác là Lâm Thành Lý đã được Chúa gọi về quê trời vĩnh cửu để lại cho ông bà đứa con dâu và hai đứa cháu gái với tuổi còn nhỏ…Sau khi chôn cất con trai xong, tới lượt cụ bà cũng được Chúa cất về, để cho bác ta một cái đau khổ rất lớn đó là mất con và mất người vợ yêu quý. Để rồi cuối cùng, bác phải đơn côi sống một mình.

Tuy sống một mình, và đang hưởng tất cả những gì mà Chính phủ Hoa kỳ giúp đỡ, nên bác cũng tạo được cho mình có một cuộc sống tương đối, thêm nữa bác đã chọn cho mình một hướng đi là lấy sự học để tăng thêm kiến thức cho mình…Đúng thế, học để tạo thêm kiến thức và học để biết cái hay của người và cái khiếm khuyết của ta…Nên bác đã chọn và hội nhập với cuộc sống nơi xứ người. Mỗi ngày Chúa nhật gặp bác tại nhà thờ, người viết cảm thấy bác vẫn mạnh khoẻ và vui vẻ, nhiều khi bản thân người viết nghĩ: “Không biết lúc mình bằng tuổi cùa bác, có được sự an vui như bác đó không??” qua hình ảnh của bác, người viết có một ý nghĩ đến những người già bằng tuổi bác đang sống tại Việt nam…Người già tại Việt nam, người viết tin chắc không bao giờ có cuộc sống như bác Lâm Lay. Vì ở Việt nam họ luôn quan niệm: “Già rồi đầu óc không còn minh mẫn và hay quên…” Nhưng Bác Lâm Lay không quên, nên bác đã học và đã tốt nghiệp. Người viết xin chúc mừng bác và chúc bác luôn an mạnh để làm gương cho con cháu trong tương lai…

Trương Hải


Sứ điệp Hòa bình thế giới và nước Việt Nam

Tại Vatican, sáng 11.12.2007, Đức Hồng Y Renato Martino, Chủ Tịch Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hòa bình đã mở cuộc họp báo để công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 nhân ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 41, ngày 01.01.2008 với chủ đề ”Gia đình nhân loại: cộng đồng hòa bình”. Trong Sứ điệp Hòa bình thứ 3 của mình, Đức Biển Đức 16 đặc biệt bênh vực định chế gia đình trước những đe dọa ngày nay. Từ phạm vi nhỏ hẹp của gia đình tự nhiên, Ngài tiếp sang phần thứ 2 của Sứ Điệp và nói đến gia đình nhân loại, với căn nhà chung là trái đất, và Ngài cũng nhấn mạnh đến nghĩa vụ phải bảo vệ môi sinh. Trong phạm vi chương nầy, chúng tôi đề nghị chúng ta đọc lại vài đoạn Sứ Điệp nói đến gia đình tự nhiên và gia đình nhân loại, nhưng chỉ giới hạn trong những người gọi nhau là đồng bào, là người Việt-Nam.
I. - SỨ ĐIỆP HÒA BÌNH THẾ GIỚI.
1. Đầu năm mới, tôi muốn gửi những lời chúc hòa bình nhiệt tình tới mọi người nam nữ trên thế giới và một sứ điệp đầy hy vọng, mang một chủ đề mà tôi đặc biệt quan tâm: ‘Gia đình, cộng đồng hòa bình’. Thực vậy, hình thức hiệp thông đầu tiên giữa con người với nhau chính là sự hiệp thông mà tình yêu phát sinh giữa một người nam và một người nữ, quyết định kết hiệp với nhau một cách bền vững để cùng nhau xây dựng một gia đình mới. Nhưng các dân tộc trên thế giới cũng được mời gọi thiết lập giữa họ những quan hệ liên đới và cộng tác, trong tư cách là các phần tử của gia đình nhân loại duy nhất, như Công đồng chung Vatican II đã tuyên bố: « Mọi dân tộc họp thành một cộng đồng duy nhất, có chung một nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã làm cho toàn thể nhân loại cư ngụ trên toàn trái đất, và họ có cùng một mục tiêu tối hậu là Thiên Chúa». Gia đình, xã hội và hòa bình
2. Gia đình tự nhiên, trong tư cách là cộng đồng hiệp thông sâu xa trong cuộc sống và tình yêu, dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ (Vui mừng và Hy vọng số 48), là nơi đầu tiên của sự nhân bản hóa con người và xã hội, là ‘chiếc nôi của sự sống và tình yêu’ (Người tín hữu giáo dân, số 40). Vì thế, thật hợp lý khi gia đình được gọi là xã hội tự nhiên đầu tiên, ‘một định chế do Thiên Chúa thiết lập, làm nền tảng cho đời sống con người, như kiểu mẫu của mọi trật tự xã hội” (Toát yếu Học thuyết Xã hội của Hội Thánh, số 211).
3. Trong một đời sống gia đình lành mạnh, người ta cảm thấy những yếu tố cơ bản của hòa bình: công lý và tình thương giữa anh chị em, năng quyền của cha mẹ được biểu lộ, sự phục vụ yêu thương đối với những phần tử yếu thế nhất, vì còn nhỏ, bệnh tật hoặc già yếu, sự tương trợ lẫn nhau trước những nhu cầu của cuộc sống, sự sẵn sàng đón nhận người khác và nếu cần tha thứ cho họ. Vì thế, gia đình là người giáo dục đầu tiên và không thể thay thế được về hòa bình. Do đó, không lạ gì nếu bạo lực, xảy ra trong gia đình, thì bị coi là điều đặc biệt không thể dung thứ được. Khi quả quyết gia đình ‘là tế bào đầu tiên và sinh tử của xã hội’ (Apostolicam Actuositatem, số 11), người ta nói lên một điều thiết yếu. Gia đình cũng là nền tảng của xã hội vì gia đình giúp thực hiện những kinh nghiệm quan trọng về hòa bình. Vì thế cộng đồng nhân loại không thể bỏ qua những sứ vụ mà gia đình hoàn tất. Người đang thụ huấn có thể học nếm hương vị đích thực của hòa bình ở chính trong ”tổ ấm” nguyên thủy mà thiên nhiên chuẩn bị cho họ? Từ ngữ gia đình chính là một từ ngữ hòa bình; cần phải luôn xuất phát từ nơi gia đình để không đánh mất việc sử dụng từ ngữ hòa bình. Trong sự lạm phát ngôn ngữ ngày nay, xã hội không thể không tham chiếu ”văn phạm” mà mọi đứa trẻ đều học từ những cử chỉ và cái nhìn của cha mẹ trước khi học từ những lời nói của cha mẹ em.
4. Vì có nhiệm vụ giáo dục các phần tử của mình, nên gia đình là chủ thể có những quyền đặc biệt. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, vốn là một thắng lợi của nền văn minh pháp lý về giá trị thực sự phổ quát, khẳng định rằng ”gia đình là nòng cốt tự nhiên và cơ bản của xã hội và gia đình có quyền được xã hội và Nhà Nước bảo vệ” (điều 16/3). Về phần mình, Tòa Thánh đã nhìn nhận một phẩm giá pháp lý đặc biệt của gia đình khi công bố Hiến chương về các quyền gia đình. Lời Tựa có ghi: « Các quyền của con người, cho dù được biểu lộ như quyền của cá nhân, nhưng cũng có một chiều kích xã hội cơ bản, chiều kích này tìm được trong gia đình một sự biểu lộ bẩm sinh và rất quan trọng ». Các quyền được liệt kê trong Hiến Chương là một sự biểu lộ và diễn tả rõ ràng luật tự nhiên, được ghi trong tâm khảm và được lý trí biểu lộ cho con người. Việc phủ nhận hoặc giới hạn các quyền của gia đình, làm lu mờ chân lý về con người, đe dọa chính nền tảng của hòa bình.
5. Vì thế, kẻ nào, dù vô tình, cản trở định chế gia đình, thì cũng làm cho hòa bình trong toàn thể cộng đồng, quốc gia và quốc tế, trở nên mong manh, vì làm suy yếu tác nhân chính yếu của hòa bình. Đây là một điểm đáng đặc biệt suy nghĩ: tất cả những gì góp phần làm suy yếu gia đình tự nhiên, trực tiếp hay giám tiếp cản trở sự sẵn sàng của họ đón nhận một sự sống mới trong tinh thần trách nhiệm, những gì ngăn cản quyền của gia đình trở thành chủ thể đầu tiên chịu trách nhiệm về giáo dục con cái, thì cũng là một chướng ngại trên con đường hòa bình. Gia đình cần nhà ở, công ăn việc làm và một sự nhìn nhận đúng đắn đối với hoạt động nội trợ của cha mẹ, của trường học đối với con cái, trợ giúp y tế căn bản cho mọi người. Khi xã hội và chính trị không dấn thân giúp đỡ gia đình trong các lãnh vực ấy, thì sẽ thiếu một nguồn mạch thiết yếu để phụng sự hòa bình. Đặc biệt, các phương tiện truyền thông xã hội, do tiềm năng giáo dục của chúng, có một trách nhiệm đặc biệt trong việc cổ võ tôn trọng gia đình, trong việc diễn tả những mong đợi và các quyền của gia đình, làm nổi bật vẻ đẹp gia đình. Nhân loại là một đại gia đình
6. Để sống an bình, cộng đồng xã hội cũng được kêu gọi noi theo các giá trị làm nền tảng cho gia đình. Điều này có giá trị đối với các cộng đồng địa phương cũng như các cộng đồng quốc gia; có càng có giá trị đối với cộng đồng các dân tộc, là gia đình nhân loại đang sống trong căn nhà chung là trái đất. Trong viễn tượng đó, ta không thể quên rằng gia đình nảy sinh từ sự ưng thuận chung kết và trách nhiệm giữa một người nam và một người nữ, và họ sống sự ưng thuận ấy với ý thức về những con cái dần dần gia nhập gia đình của họ. Để được thịnh vượng, cộng đồng gia đình cần có sự đồng thuận quảng đại của mọi phần tử. Cần làm sao để ý thức này cũng trở thành một xác tín chung của tất cả những người được kêu gọi họp thành gia đình chung của nhân loại. Cần biết chấp nhận ơn gọi mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong chính bản tính của chúng ta. Chúng ta không sống cạnh nhau một cách tình cờ; tất cả chúng ta đang tiến bước trên cùng một con đường như con người và, vì thế, như anh chị em với nhau. Do đó, điều thiết yếu là mỗi người dấn thân sống cuộc sống của mình trong thái độ trách nhiệm đối với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là nguồn mạch nguyên thủy cuộc sống của mình cũng như của tha nhân. Chính nhờ đi ngược lên tới Nguyên Lý Tối Cao mà ta có thể nhận thức giá trị vô điều kiện của mọi người, và nhờ đó có thể đặt những tiền đề để xây dựng một nhân loại an bình. Nếu không có Nền Tảng siêu việt ấy, thì xã hội chỉ là một tập hợp những người láng giềng, chứ không phải là một cộng đồng anh chị em, được kêu gọi họp thành một đại gia đình. Gia đình, cộng đồng nhân loại và môi sinh
7. Gia đình cần một mái nhà, một môi trường theo mức độ của mình, trong đó có thể thiết lập quan hệ giữa các phần tử với nhau. Đối với gia đình nhân loại, căn nhà ấy chính là trái đất, là môi trường mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã ban cho chúng ta để chúng ta cư ngụ trong tinh thần sáng tạo và trách nhiệm. Chúng ta cần phải chăm sóc môi sinh: môi sinh được ủy thác cho con người bảo vệ và giữ gìn trong một tinh thần tự do trách nhiệm, luôn để ý tới công ích của mọi người như một tiêu chuẩn để thẩm định. Dĩ nhiên con người có giá trị tối thượng so với toàn thể thiên nhiên. Tôn trọng môi sinh không có nghĩa là coi thiên nhiên vật chất hay động vật là quan trọng hơn con người. Đúng hơn, điều ấy có nghĩa là mỗi người không thể coi thiên nhiên một cách ích kỷ như thể nó hoàn toàn nhắm phục vụ cho tư lợi của mình, vì các thế hệ mai sau cũng có quyền được hưởng những lợi ích của thiên nhiên, và khi làm như thế, họ thi hành cùng một tinh thần tự do trách nhiệm mà chúng ta đang đòi hỏi cho mình. Cũng không được quên những người nghèo, trong nhiều trường hợp, họ bị gạt ra ngoài, không được hưởng những tài nguyên thiên nhiên được dành cho tất cả mọi người. Ngày nay, nhân loại lo lắng cho tương lai sự quân bình môi sinh. Về vấn đề này, nên thẩm định một cách khôn ngoan, trong một cuộc đối thoại giữa các chuyên gia và những người khôn ngoan, không đưa ra những phán đoán có tính chất ý thức hệ để đi tới những kết luận hấp tấp và nhất là bằng cách cùng nhau tìm kiếm một kiểu mẫu phát triển dài hạn, bảo đảm an sinh của mọi người, trong niềm tôn trọng sự quân bình môi sinh. Nếu việc bảo vệ môi sinh có những giá phải trả, thì cần phải chia đồng đều cái giá ấy, để ý đến những khác biệt trong sự phát triển tại các nước và tình liên đới đối với các thế hệ tương lai. Hành động khôn ngoan thận trong không có nghĩa là không lãnh nhận trách nhiệm và hoãn lại các quyết định; đúng hơn có nghĩa là dấn thân cùng nhau đưa ra các quyết định, sau khi đã cứu xét trong tinh thần trách nhiệm những con đường phải theo, với mục đích củng cố liên minh giữa con người và môi sinh, liên minh ấy phải phản ánh tình thương sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng từ đó chúng ta xuất phát và chúng ta đang tiến về cùng Ngài.
II. ĐẤT NƯỚC VIỆT-NAM.
1. Giới hữu quyền. Các gia đình người Việt (còn được gọi là đồng bào), sống trên Đất Nước Việt-Nam, từ Ải Nam Quan đến mũi Cà mau, liên kết làm thành xã hội Việt-Nam và tiếp sức cho xã hội bằng việc phục vụ sự sống: gia đình sinh ra các công dân và, trong gia đình, họ thực tập các nhân đức xã hội. Gia đình là linh hồn cho sự sinh hoạt và sự phát triển xã hội Việt-Nam. Trong gia đình, cha mẹ có quyền phụ huynh thì cũng có nghĩa vụ chăm sóc đầy đủ cho các con. Các gia đình hợp những xã hội được gọi là Phường, Quận, Tỉnh… và, cuối cùng, Nhà Nước trung ương. Mỗi cấp cũng có thể được coi như một gia đình gồm những công dân bình đẳng nhau. Ai sẽ có quyền và bổn phận lo cho các người khác ? Bởi thế, người ta đã phát minh ra việc bầu cử. Những công dân muốn có quyền chăm sóc các đồng bào khác thì nộp dơn xin ứng cử. Đơn xin đó cần hợp lệ hóa bởi Mặt trận Tổ quốc. Sau khi tuyên bố kết quả bầu cử, ứng cử viên đắc cử có quyền ‘phục vụ’ đồng bào cử tri. Tùy theo từng cấp, họ là ủy viên của các Ủy ban Nhân dân và, nếu được bầu vào Quốc hội thì có danh xưng là Đại Biểu. Những vị nầy được gọi là dân cử. Ngoài ra, cũng có những công dân có khả năng đặc biệt được được bổ nhiệm như Thống đốc Ngân hàng nhà nước, … hay như bộ trưởng được Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm. Những vị nầy được gọi là công cử.
2. Trách nhiệm giới chính trị. Nguyên tắc, khi có quyền thì cũng có bổn phận đi kèm. Bổn phận ở đây là mang lại hòa bình cho các gia đình họp thành đơn vị bầu cử, nơi mình được bầu để hành xử quyền hành này. Trong đó, ít nhất phải quan tâm giúp gia đình có nhà ở, công ăn việc làm cho cha mẹ, trường học cho con cái và trợ giúp y tế căn bản cho mọi người.
3. Người Việt còn cần đến Tín ngưỡng. Hiện tại, Người Việt ngày càng có nhiều Đức Tin nơi các Tôn giáo. Bằng chứng, nhiều nhà thờ, chùa chiền được dựng nên đó đây. Tín hữu các tôn giáo tích cực trong các công tác xã hội như giúp đỡ các người nghèo khổ, bệnh tật, nạn nhân bão lụt… Họ tiếp tay với Nhà nước rất nhiều trong việc mang lại sự an bình cho các nạn nhân bảo lụt khắp nơi, trong thời gian qua. Giáo Hội Công Giáo được kêu gọi chia sẻ niềm Hy vọng bằng luôn đề xuất con đường đối thoại. Chỉ một cuộc đối thoại tín nhiệm và xây dựng giữa các thành phần của xã hội dân sự cũng đủ mở ra một niềm hy vọng mới cho toàn dân Việt-Nam. « Giáo Hội, vì sứ mạng và chức năng mình, không lẫn lộn với một cộng đồng chánh trị và không bị gắn liền với bất cứ hệ thống chánh trị nào » (Vui mừng và Hy vọng số 76). Bởi thế ‘cộng đồng chánh trị và Giáo Hội độc lập với nhau và tự trị trong lãnh vực chuyên biệt của mình’. Nhưng vì cả hai cùng được mời gọi hoàn tất sứ mạng riêng biệt phục vụ cùng một tập thể con người (toàn dân Việt-Nam), sự phục vụ sẽ càng hữu hiệu nếu ‘cả hai thực hiện nhiều hơn nữa một sự hợp tác lành mạnh với nhau’. Vì ‘sự hợp tác lành mạnh nầy’, Giáo Hội mời tín hữu dấn thân cho sự phát triển mọi người Việt và xây dựng một xã hội công bằng, đoàn kết và bình đẳng. Giáo Hội không muốn thay người trách nhiệm của Nhà nước, công việc của cá nhân hay tập thể. Để thực hiện sự ‘hợp tác lành mạnh’ nầy, Giáo Hội mong đợi nơi chánh quyền tôn trọng toàn diện sự độc lập và tự trị của Giáo Hội mà quyền Tự do Tôn giáo quí giá đã được khẳng định trong Công Đồng Vatican II và trong những Tuyên ngôn và Quy ước quốc tế, cho từng cá nhân và những cộng đồng tôn giáo. Thư Chung của Hội đồng Giám mục năm 2007: ‘Giáo dục hôm nay, Xã hội và Giáo hội ngày mai’ được đưa ra nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thành lập hàng Giáo phẩm vào năm 2010. Điều đó thật đúng lúc khi mà khắp nơi trên thế giới, giáo dục đang là một vấn đề thời sự nóng bỏng và đặc biệt hơn nữa, tại Việt Nam, nhiều người cho rằng đã đến lúc cần phải cương quyết nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục. Mục đích của nền giáo dục Kitô giáo không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con Thiên Chúa để mai sau trở thành công dân nước trời. Sứ mạng đó được khơi nguồn từ Chúa Cha, được thực hiện nơi Chúa Con và được kiện toàn nhờ Chúa Thánh Thần. Báo Nhân Dân ngày 29.12.2007 có kể: « Ngày 28-12, Ủy ban Đoàn kết Công giáo TP Hồ Chí Minh tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động 5 năm 2002-2007, bầu đoàn đại biểu tham dự Đại hội Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam lần thứ V.Đại diện Ban Tôn giáo, Ủy ban MTTQ thành phố; Ban Đoàn kết Công giáo các quận, huyện cùng nhiều linh mục, bà con giáo dân trong thành phố dự.Năm năm qua, cùng các hoạt động tín ngưỡng, bà con giáo dân thành phố còn tham gia nhiều phong trào thi đua bảo vệ an ninh Tổ quốc; tích cực hưởng ứng cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; quyên góp giúp đỡ đồng bào nghèo, đồng bào bị thiên tai, bão lụt... do MTTQ thành phố phát động. Trong hoạt động từ thiện xã hội, giáo dân thành phố đã đóng góp hơn 120 tỷ đồng và 25.000 USD. Riêng năm 2007, ngoài đóng góp hơn 40 tỷ đồng giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, còn có 2.066 lượt người tham gia hiến máu nhân đạo...Hội nghị đã biểu quyết bầu 26 đại biểu chính thức đi dự Đại hội Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam lần thứ V tại Thủ đô Hà Nội vào quý I năm 2008. » Quỹ cứu trợ bão lụt tại Việt Nam do nguyệt san ‘Dân Chúa Âu Châu’ thu được: 52.658 Euro, nguyệt san ‘Dân Chúa Úc châu’ thu được: 19.180 Úc kim (Ngoài ra các Cha Tuyên Úy các Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Úc cũng quyên góp và LM Chủ tịch Liên Tu sĩ Úc sẽ có báo cáo); Quỹ VietCatholic Charity: 42.125 USD. Ngoài ra, Quỹ Cứu Trợ của Liên Đoàn CGVNHK sẽ được báo cáo riêng.
4. Nhà ở cho gia đình và cơ sở cho tôn giáo Luật ‘Đất đai’ ngày 26.11.2003 qui định:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh. Luật này quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Điều 2. Đối tượng áp dụng. Đối tượng áp dụng Luật này bao gồm:
1. Cơ quan nhà nước thực hiện quyền hạn và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai;
2. Người sử dụng đất;
3. Các đối tượng khác có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất. Điều 3. Áp dụng pháp luật
1. Việc quản lý và sử dụng đất đai phải tuân theo quy định của Luật này. Trường hợp Luật này không quy định thì áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan.
2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó. Điều 4. Giải thích từ ngữTrong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Nhà nước giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
2. Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
3. Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định là việc Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho người đó.
4. Nhận chuyển quyền sử dụng đất là việc xác lập quyền sử dụng đất do được người khác chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật thông qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà hình thành pháp nhân mới.
5. Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này.
6. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
7. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới… Việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới không đến nơi chốn, nên đã có rất nhiều gia đình không có nhà ở. Tu viện Dòng Thánh Giuse tại Nha Trang bị chánh quyền sở tại trưng dụng từ năm 1975 đến nay vẫn chưa hoàn trả cho giáo hội. Khu vực này được sử dụng làm xí nghiệp quốc doanh khai thác và chế biến thủy sản từ nhiều năm qua. Linh Mục Lưu Minh Hoàng và giáo dân đã yêu cầu trả lại nhưng không thành. Cơ quan từ thiện MISERIOR của Đức quyết định tài trợ 9 tỷ đồng cho Dòng Thánh Giuse để xây bệnh viện trên khu đất này. Đúng vào ngày 15 tháng 3, đại diện của MISERIOR đến khảo sát thực địa thì chánh quyền không tiếp đón cũng không cử người tới làm việc, nên dự án đó có thể bị hủy bỏ. Kết quả, người nghèo không được trợ giúp y tế căn bản. (xem số 5 Sứ điệp nói trên.)Ngày 03.12.2007, Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài gòn, đã gởi TÂM THƯ đến tín hữu công giáo Giáo phận cho biết việc Đức Hồng Y khiếu nại với Chánh quyền về đất đai của Chủng viện Thánh Giuse. Đức Tổng Giám mục viết: Trước năm 1975, Hội Đồng Quản Trị Giáo Phận Công Giáo đã để cho các linh mục người Pháp thuộc Hội thừa sai Paris (MEP) sử dụng. Năm 1976, khi các Cha bị trục xuất, Chánh quyền thành phố lúc đó đã trưng thu khu đất ?y mà không có sự bàn bạc và trao đổi trước với Toà Tổng Giám Mục. Có lẽ Chính quyền đã hiểu lầm rằng đây là tài sản của các linh mục MEP, trong khi đó là tài sản của Giáo phận chúng ta. Đức Cố Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã từng khiếu nại với Chính quyền về vấn đề này nhưng không nhận được câu trả lời nào. Trước hết, về cơ sở 11 Nguyễn Du, thuộc Giáo Phận TPHCM, được biết rằng suốt từ năm 1976 đến nay, nhà nước đã giao cho Viện Quy Hoạch và Thiết Kế thuộc Bộ Xây Dựng để làm văn phòng, sau đó làm xưởng cưa và cuối cùng thì lại làm thành nhà ở cho cán bộ công nhân viên, gọi là khu nhà tập thể 11 Nguyễn Du. Hiện nay, đang có 50 hộ gia đình sống ở đây.Suốt nhiều năm qua, nhiều lần Toà Giám Mục đã gửi văn thư để xin nhà nước trả lại, nhưng không được đáp ứng. Cho đến cuối tháng 11 vừa qua, Ủy Ban Nhân Dân TPHCM lại gửi cho Toà Giám Mục Sàigòn một văn thư xác nhận rằng “không có cơ sở xem xét giải quyết” Năm 2004, qua cha Tổng đại diện của giáo phận, Đức Hồng Y nhắc lại với Chính quyền Thành phố lời đề nghị của giáo phận mong muốn được hoàn trả lại khu nhà đất 4.000m2 nói trên và Người đã không nhận một câu trả lời nào. Cách đây hai tuần, Uỷ ban nhân dân thành phố gửi cho Người một văn thư, trong đó xác định rằng việc Toà Tổng Giám Mục đòi lại khu nhà đất 11 Nguyễn Du là ‘không có cơ sở xem xét giải quyết”. Đức Hồng Y cũng được báo tin rằng Công ty Quản lý nhà quận I cho tiến hành đo vẽ xác định hiện trạng và lập hồ sơ kỹ thuật bán nhà cho các hộ gia đình sinh sống tại đây. Ngày 15.12.2007, Ð?c Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám mục Hà nội, cung lên tiếng với chính quyền về đất Tòa Khâm Sứ và xin dân Chúa cầu nguyện: - Từ nhiều năm qua, sinh họat của Tổng giáo phận bị giới hạn vì thiếu thốn cơ sở vật chất. Có những Thánh Lễ, người tham dự phải tràn ra đường phố.- Hội đồng Giám mục Việt nam, tổ chức đứng đầu Giáo hội Công giáo tại Việt nam, chưa có một địa điểm để đặt trụ sở chính. Từ nhiều năm nay, Tòa Tổng Giám mục và Hội đồng Giám mục đã nhiều lần đệ đơn lên Chính quyền các cấp xin giao lại Tòa Khâm sứ để Giáo hội có đủ phương tiện cần thiết cho những họat động tôn giáo tối thiểu. Đề nghị chính đáng của tôn giáo chưa được đáp ứng, trong khi đó Quận Hoàn Kiếm lại dùng Tòa Khâm sứ để kinh doanh buôn bán. Trước đây đã bán phở, nay lại mở ngân hàng. Và ngày 13-12-2007 vừa qua thêm kinh doanh giữ xe với quang cảnh thật hỗn độn. Vì thế, xin anh chị em hãy tích cực cầu nguyện để những nơi tôn nghiêm của tôn giáo được tôn trọng, nhu cầu chính đáng của Giáo phận và của Hội đồng Giám mục được đáp ứng và những sinh họat tôn giáo được thuận lợi, góp phần xây dựng xã hội, đặc biệt khuôn mặt của thủ đô được tốt đẹp. Tín hữu Công giáo Hà nội đã đáp ứng thật tích cực. Những buổi đọc kinh, cầu nguyện đã được tổ chức với sụ tham dự của nhiều ngàn người. Chính quyền quận Hoàn Kiếm gia tăng thái độ khiêu khích và thách thức Giáo Hội. Giữa buổi chiều đã ngang nhiên cho nhân viên gắn bảng hiệu "Nhà Văn Hoá" và "Phòng VHTT-TDTT Quận Hoàn Kiếm" (Phòng Văn hoá Thông tin - Thể dục Thể thao). Sáng hôm nay, ngày 30.12.2007, Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng đã vui vẽ đến gặp Đức Tổng Giám mục Hà nội và đã đi tham quan phần đất Tòa Khâm sứ. Hy vọng.Về phía Tổng Giáo phận Sàigòn, ngày 25.12.2007, Đài Á châu tự do đã phát đi lời Linh mục Huỳnh Công Minh (thành viên hàng đầu Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam), tổng đại diện giáo phận cho biết:“Đức Hồng Y đã công khai, chính thức viết thư cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân trong giáo phận để cho giáo dân biết tình hình của cơ sở, một phần của đại chủng viện, một khu nhà đất, nhà nước đã tịch thu sau 30-4-75, toà Giám Mục cũng khiếu nại từ lúc đó, người ta không giải quyết và toà Giám Mục cũng vẫn khiếu nại.Cho nên Đức Hồng Y thông báo cho biết tình hình. Như đã nói trong thư, Đức Hồng Y đã có văn bản khiếu nại với nhà nứơc, chính quyền, và kêu mời mọi người cầu nguyện, trong tinh thần Công Giáo, không muốn tạo thành một chuyện đối đầu hay gây rắc rối. Nhưng quyền lợi của mình, mình yêu cầu, không được giải quyết thì mình khiếu nại.Để tạm kết phần nầy, ước gì Nhà nước xem xét để cung cấp một nơi ở xứng đáng cho các gi đình chưa có nhà ở. Xét trả lại những cơ sở của các tôn giáo, dựa trên sự công bình, chứ không vì lý do chánh trị nhất thời. Như ông Nguyễn Thế Danh, Phó ban tôn giáo Chính phủ Việt Nam đã hứa. Ngày 23/01.2007, hai hôm trước buổi gặp gỡ giữa Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, trong bài ‘Việt nam trong nỗ lực cải thiện quan hệ với Vatican http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/01/23/InterviewMrNguyenTheDanDeputyVietnamReligionCommittee_GMinh/ Gia Minh phóng viên đài Á Châu Tự Do (RFA) phỏng vấn ông Nguyễn Thế Danh, Phó ban tôn Giáo Chính Phủ Viêt Nam, đã hỏi:- Đối với giáo hội công giáo thì có nhiều cơ sở được mượn từ năm 1975, nay người ta muốn trả lại thì nay được giải quyết thế nào?và ông Nguyễn Thế Danh: đã trả lời: - Việt Nam trải qua chiến tranh rất lâu nên có nhiều tồn tại. Về cơ sở tôn giáo thì không riêng gì của công giáo,chúng tôi có chính sách như luật đất đai, trong đó nói rằng chính quyền các cấp chủ yếu là Ủy ban Nhân dân UBND tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo, quỹ đất địa phương và nhu cầu sinh hoạt tôn giáo để xem xét cấp quyền sử dụng đất cho tổ chức tôn giáo để phục vụ cho mục đích sử dụng tôn giáo lâu dài mà không thu tiền sử dụng đất.Nghĩa là nhà nước Việt Nam căn cứ vào nhu cầu thực tế của sinh hoạt tôn giáo và quỹ đất địa phương đáp ứng tối đa có thể được trong phạm vi của mình cho đất xây dựng cơ sở thờ tự đáp ứng nhu cầu của nhân dân không phụ thuộc vào trước – sau; không lệ thuộc vào sức ép, vào quá khứ nào.Chỉ theo nhu cầu thực tế của của ngừoi dân. Còn những nơi mượn có giấy tờ thì phải trả lại; đó là mặt đạo lý chứ không riêng gì về tôn giáo đâu.
5. Vấn đề môi sinh Thiên Chúa đã tạo nên vũ trụ trong sạch và trao cho nhân loại mà Ngài thương yêu vì được dựng nên giống. Mỗi người cần đấm ngực và phải nhận ‘Lỗi tại chúng ta.’ Chính những cuộc phát triển công kỹ nghệ đã làm ô nhiễm môi sinh. Các nước đã phát triển kinh tế cũng đã góp phần làm nóng địa cầu, làm cho khi hậu thay đổi. Việc đốn cây cối vô trật tự đã không còn cản được gió bảo. Tại Sàigòn, cứ xây những tòa nhà cao ốc thì nó phá lung tung ở dưới đất. Nhà cửa cứ cất không không nghĩ đến nơi thoát nước thì, đương nhiên xảy ra tình trạng ngập úng. Thiên Chúa hiền thì người ta than trách ‘Trời xấu ! ’ hay bảo thiên tai. Các ông kẹ tham nhũng đầy quyền thế hay doanh nhân lắm tiền thì người ta lại sợ.Chưa hết, còn phải đến những gian thương bỏ các chất hóa học làm tổn hại sức khỏe hay có khi làm chết người tiêu dùng.6. Kể từ 01.01.2008, Việt-Nam sẽ là thành viên Hội Đồng Bảo An và, vào tháng 07.2008, sẽ ngồi vào ghế Chủ tịch Hội Đồng Bảo An. Như thế, các nhà lãnh đạo Việt-Nam có dịp để ‘tề gia, trị quốc, bình thiên hạ’.Xin kết luận với lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin Chúa dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm... Ôi Thần Linh thánh ái, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí: ơn an bình. »
Lễ Thánh Gia Thất 30.12.2007
Hà Minh Thảo